Cứu sử thi Tây Nguyên khi còn có thể

Dù đã có 801 tác phẩm đồ sộ đã được phát hiện, sưu tầm, hàng chục bộ sử thi được xuất bản, nhưng sử thi của đồng bào các dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên vẫn đang đứng trước nguy cơ mai một ngay trên quê hương.

13146984441028175513_574_0

Một di sản khổng lồ…

Vượt xa so với chỉ tiêu ban đầu là sưu tầm khoảng 200 tác phẩm văn nghệ dân gian (nói chung, không riêng sử thi), Dự án “Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản sử thi Tây Nguyên” được thực hiện trong thời gian từ 2001 đến 2008 đã sưu tầm được 801 tác phẩm với 5.679 băng ghi âm loại 90 phút. Sự “bội thu” này đã làm bất ngờ hầu hết các nhà nghiên cứu văn hóa trong và ngoài nước

Đặc biệt, đã có ít nhất 3 bộ sử thi liên hoàn (còn gọi là sử thi chuỗi, sử thi phổ hệ) rất đồ sộ được phát hiện. Có thể kể đến như các sử thi: Ốt Drông của người Mnông, Dông của người Ba Na và Dăm Diông của người Xê Đăng. Mỗi bộ sử thi liên hoàn này gồm khoảng 100 tác phẩm có sự liên kết khá hoàn chỉnh và được các chuyên gia đánh giá là những sử thi có độ dài nhất của thế giới, sánh ngang với những tác phẩm sử thi hoành tráng của nước ngoài như Ramayana, Kalêvala…. Một điều thú vị khác, vùng Bắc Tây Nguyên (chủ yếu là Kon Tum) vốn trước đây bị coi là “vùng trắng” sử thi thì qua điều tra, sưu tầm đã phát hiện ít nhất đã có 2 bộ sử thi liên hoàn của người Ba Na và Xê Đăng được phát hiện.

Thầy cúng gọi mời Giàng, Thần núi, Thần Sông… về chứng kiến và ban phát sức khỏe cho voi. Nghi lễ bôi tiết lợn lên đầu con voi được xem như sự chứng kiến của các đấng thần linh

Vậy là gần một thế kỷ kể từ khi nhà nghiên cứu người Pháp, L.Sabatier công bố sử thi Đam San (năm 1927), giới nghiên cứu và công chúng rộng rãi chỉ biết sử thi Tây Nguyên như một hiện tượng văn hoá đột xuất với vài cái tên ít ỏi (sau Đam San có Đam Di, Khinh Dú, Đam Đơroan, Y Ban, Y Bơrao), thì nay với kết quả này đã phát lộ và khẳng định: Vùng đất Tây Nguyên đã và đang lưu giữ một kho tàng khổng lồ các tác phẩm sử thi .

… Và nguy cơ hiển hiện

Đến nay đã có 75 bộ sử thi được xuất bản (song ngữ) và 21 bộ sử thi khác sắp sửa được xuất bản. Tuy nhiên, việc làm này cũng mới chỉ dừng lại ở khâu “văn bản hóa” sử thi rồi… cất kho.

Ông, Phó giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Đắk Lắk, Trương Bi cũng là nhà nghiên cứu văn hóa Tây Nguyên nhìn nhận: “Chỉ dăm năm nữa là sử thi biến mất trong đời sống đồng bào các dân tộc Tây Nguyên”.

“Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Đắk Lắk đã hoàn tất Báo cáo khoa học “Nghệ thuật truyền khẩu sử thi Đắk Lắk đề nghị đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia”. Trên cơ sở đó sẽ có kế hoạch lập hồ sơ trình UNESCO công nhận di sản Văn hóa phi vật thể.”

Diễn xướng mang tính cộng đồng (hát kể sử thi) là “con đường” để trí tuệ dân gian được phổ biến, lưu giữ ký ức văn hoá…, nhưng hiện tại trong số 368 nghệ nhân biết hát kể sử thi Tây Nguyên đã được lập hồ sơ đề nghị phong tặng danh hiệu “nghệ nhân dân gian”, thì số người còn sống còn lại “trên đầu ngón tay”. Người biết hát kể sử thi thì như “lá vàng trên cây”, còn lớp trẻ hiện nay lại đang chạy theo các thứ văn hóa đương đại: Nhạc trẻ, phim ảnh bạo lực, nhạc rap, hiphop… và quay lưng lại với văn hóa truyền thống.

Việc phiên âm, biên dịch các tác phẩm sử thi vốn là công việc khó khăn, nay lại càng nan giải hơn bởi những nghệ nhân vừa biết hát kể sử thi, vừa có khả năng phiên âm, biên dịch chuyển ngữ vốn đã cực kỳ thưa thớt thì nay hầu như không còn ai.

Người Ê Đê có câu: “Thiếu tiếng chiêng, tiếng khan như cuộc sống thiếu cơm, thiếu muối”. Vậy nên, sau mỗi mùa nương rẫy đồng bào Tây Nguyên lại tổ chức lễ hội “mùa ăn năm uống tháng” và đây cũng là dịp để người kể và người nghe sử thi hội ngộ. Nhưng hiện không gian hát kể sử thi vốn gắn liền với văn hóa nương rẫy, nhà dài, nhà rông, bến nước, nhà mồ… đang bị mất đi rất nhanh chóng.

Giáo sư Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu văn hóa dân gian từng nhận xét trong một cuộc hội thảo về sử thi Tây Nguyên rằng: Với người dân thiểu số Tây Nguyên, tất cả đều phải xuất phát từ buôn, làng để rồi trở lại buôn, làng. Phải tôn trọng văn hoá buôn làng – rừng truyền thống của họ (không phải rừng rú như có người vặn vẹo). Phá vỡ thiết chế đó là phát sinh bi kịch – bi kịch văn hóa, bi kịch xã hội.

Không gian hát kể sử thi vốn gắn liền với văn hóa nương rẫy, nhà dài, nhà rông, bến nước, nhà mồ… đang bị mất đi rất nhanh chóng

Với những nguy cơ hiện hữu ấy, các nhà nghiên cứu văn hóa Tây Nguyên nhận định rằng, chỉ dăm năm nữa, muốn tiếp cận sử thi Tây Nguyên chỉ còn cách là vào tìm trong kho của Viện nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam.

Theo ông Trương Bi nêu ra giải pháp cần kíp để cứu sử thi là tổ chức nhiều hơn nữa các lớp truyền dạy hát kể sử thi và có chế độ đãi ngộ thỏa đáng với các nghệ nhân. Chuyển nội dung các bộ sử thi từ sách qua băng, đĩa phát phát trên các đài truyền thanh cho người đồng bào nghe thường xuyên. Biên tập Sử thi thành các cuốn truyện tranh mỏng song ngữ (tiếng Việt và tiếng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên) rồi đưa vào các thư viện trường học, nơi có con em người đồng bào theo học, phát cho người đồng bào. Chuyển sử thi thành phim hoạt hình, phim truyện rồi công chiếu trên truyền hình, chiếu phục vụ các buôn làng… Đồng thời, chọn một số buôn còn các nghệ nhân để phục hồi sinh hoạt hát kể sử thi. Ngoài ra, cần đưa sử thi vào các cuộc liên hoan, dân ca, dân vũ…

Theo hoivannghe.gov.vn